Bào
thai ngủ yên trong cơ thể người anh song sinh suốt 40 năm
Sau
một cơn đau dữ dội, Wanter Valdemin, một nông dân 43 tuổi
ở Australia được các bác sĩ phẫu thuật và lấy ra một
khối u lạ. Đó là một bào thai sống bám vào gan của
Wanter. Theo các bác sĩ , đây là người em sinh đôi của
Wanter và họ tìm cách cứu sống bào thai này.
Wanter
Valdemin bị một cơn đau bất ngờ ập tới. Vợ ông phát
hoảng khi thấy da mặt chồng vàng ệch. Lúc đầu, các
bác sĩ ngờ là ông Wanter bị viêm gan. Sự khó chịu của
ông trong thời gian gần đây chứng tỏ điều đó. Song,
theo kết quả xét nghiệm máu, người ta nhận thấy không
có virus trong gan của ông. Bác sĩ lập tức cho ông Wanter
đi siêu âm và chụp cắt lớp. Kết quả cho thấy ông
Wanter có khối u, nhưng các bác sĩ tin rằng đó không phải
là u ác tính. Tuy nhiên họ chưa thể xác định đó là u
gì vì trong khối u ung thư không có vỏ bọc. Khối u này
có mạch máu phát triển mạnh và có vỏ dày. Một loại
tổn thương gan do ký sinh trùng hiếm gặp cũng trông đại
khái như thế. Nếu bị bệnh này, các bác sĩ không thể
lấy một mẩu khối u để phân tích, vì ký sinh trùng đó
có thể lan khắp cơ thể. Quyết định cuối cùng của
các bác sĩ là ông Wanter cần phải phẫu thuật ngay khi
khối u chưa chặn hết các mạch máu lớn.
Cho
đến giờ các bác sĩ phẫu thuật vẫn nhớ lại ngày đó
như một giấc mơ khủng khiếp vì thiếu chút nữa là họ
đã có thể... giết người! Khi chỉnh đèn chiếu sáng
đến chỗ khối u phát triển, các bác sĩ phát hoảng: có
một bào thai người sống, đang bám vào gan của Wanter và
cần phải được bảo toàn! Người ta đã liên lạc với
khoa sản và phụ khoa của bệnh viện thành phố Brisban.
Các chuyên gia sản khoa đã chuẩn bị thùng để giữ đông
lạnh bào thai. Câu hỏi đầu tiên của ông Wanter sau khi
tỉnh thuốc mê là ông có bị ung thư hay không. Còn câu
trả lời của các bác sĩ làm ông lo sợ nhiều hơn so với
chẩn đoán khủng khiếp mà ông chờ đợi: một bào thai
sống là người em sinh đôi với ông!
Làm
sao lại có đứa trẻ trong người ông Wanter? Theo phỏng
đoán của các chuyên gia, lúc đầu bào thai nằm ở gần
vùng bụng của ông sau này. Ở giai đoạn phát triển sớm,
khoang bụng của bào thai giống như cái thuyền, nghĩa là
hở. Sau khi khoang bụng đóng kín lại, đứa trẻ sinh đôi
với ông vẫn còn ở bên trong, như trong một cái bẫy.
Y
học từng biết đến các trường hợp một đứa trẻ
sinh đôi phát triển bên trong đứa kia. Vấn đề là ở
chỗ cứ trong 10 trường hợp, có 1 trường hợp mang đa
thai, xong về sau chỉ còn lại 1 đứa trẻ khỏe hơn cả.
Tự những đứa trẻ thực hiện việc lựa chọn: đứa
nào phát triển nhanh hơn sẽ lấy của đứa khác hết tất
cả chất dinh dưỡng. Bào thai yếu hơn tụt hậu về mức
độ phát triển, thường bị chết và bị đào thải.
Nhưng vì các bào thai nằm rất sát với nhau, một trong số
chúng (yếu và nhỏ hơn) có thể, mặc dù rất hiếm xảy
ra, bị bọc trong khoang bụng của bào thai khác. Nghĩa là,
bào thai mạnh thực sự “nuốt” bào thai sinh đôi với
mình.
Những
đứa trẻ ra đời như kiểu búp bê lồng trong búp bê.
Trong trường hợp đó, đứa trẻ bên trong sống ký sinh
trên cơ thể của đứa lớn. Thường đứa ký sinh không
sống lâu, và các bác sĩ thường phát hiện được một
cách tình cờ. Điều đặc biệt trong trường hợp của
ông Wanter là bào thai ký sinh sống trong bụng ông hơn 40
năm và bỗng nhiên phát triển lại! Và các bác sĩ y khoa
đã phát hiện ra nó khi mới bắt đầu phát triển.
Các
bác sĩ phải công nhận rằng bào thai này là một phát
hiện lớn của y học và họ dự định tiến hành một
cuộc thử nghiệm: cấy nó vào một phụ nữ chấp nhận
mang thai hộ. Họ muốn kiếm một phụ nữ vô sinh đồng
ý thực hiện cuộc thử nghiệm này và sau đó nhận đứa
trẻ sinh ra làm con nuôi. Còn ông Wanter không muốn để
mất người em sinh đôi của mình. Vợ ông, bà Dana đã
đồng ý làm... người mang thai hộ. Ở tuổi 37, bà Dana
hoàn toàn khỏe mạnh và các bác sĩ đồng ý tiến hành
phẫu thuật.
Một
tháng sau khi đứa trẻ ra đời, vợ chồng ông Wanter mời
rất nhiều người họ hàng tới làm lễ Thánh cho đứa
bé. Đứa trẻ được đặt tên là Endy, tên cha của ông
Wanter và cũng là cha của Endy, đã qua đời vài năm trước.
Cả ông Endy lẫn vợ, người qua đời trước cả người
chồng, đều không biết họ có đến 2 chứ không phải 1
con trai. Kết quả phân tích gene khẳng định Endy là em
của Wanter. Như vậy ông Wanter đã “mang” người em
trong mình gần nửa thế kỷ.
Ông
Aleksei Troitski, chuyên gia về sự phát triển trong bào thai
cho biết, trường hợp nói trên là duy nhất trong y học
mà ông được biết. Trước đây, các nhà y khoa có gặp
những trường hợp tương tự, nhưng thai nhi lấy ra hoặc
đã chết, hoặc ở giai đoạn phát triển muộn hơn, khiến
họ không thể thực hiện được việc cấy ghép thai.
Trong
trường hợp của ông Wanter, nếu không được phát hiện
kịp thời, thai nhi sẽ dần chèn ép tim và phổi của
người mang thai. Kết quả là ông Wanter có thể chết vì
cơn thiểu năng tim và phổi.
Theo
thông tin từ An Ninh Thế Giới, theo các nhà di truyền học,
bào thai đã “ngủ yên” cả mấy chục năm là do trong
những điều kiện không thuận lợi cho sự phát triển
(người mẹ bị stress mạnh hay bị ảnh hưởng bởi ngộ
độc thai) bào thai có thể ở tình trạng mà các tế bào
trong cơ thể không phân chia và không chết đi.
Chuyện
xảy ra với ông Wanter là rất độc đáo, bào thai dính
vào gan của ông khi ông còn nằm trong bụng mẹ, và “ngủ
yên” suốt hơn 40 năm. Kết quả khám nghiệm ông Wanter
cho thấy, thời gian gần đây trong cơ thể ông diễn ra
những thay đổi tự nhiên về hormone do tuổi tác. Có lẽ
điều này đã kích thích bào thai của người em tiếp tục
phát triển.
Việt
Báo (Theo_NgoiSao)
Cuộc
chiến giành sự sống trong bụng mẹ
Trước
hiện tượng biến mất của các bào thai trong bụng mẹ,
một câu hỏi được giới khoa học đặt ra là: Điều gì
đã xảy ra giữa những đứa trẻ khi cùng sống trong bụng
mẹ? Và người ta đã khám phá ra rằng: Ngay cả đứa trẻ
vừa mới chào đời cũng đã có thể từng phải trải
qua một cuộc chiến tranh để giành lấy sự sống từ
khi còn là một bào thai.
Vậy
thì cuộc tranh giành sự sống giữa những bào thai trong
bụng mẹ đã diễn ra như thế nào? - Đứa khỏe hơn sẽ
lấy hết máu của đứa yếu hơn, điều này đồng nghĩa
với việc đẩy đứa yếu hơn vào tình trạng thiếu ôxy
- TS. Isaac Blickstein thuộc Trung tâm y tế Kaplan ở Rehovot
(Israel) trả lời trên tạp chí New Scientist. Các thai nhi
cùng sống trong dạ con giống như hệ thống bình thông
nhau. Chúng được kết nối bằng nhau thai và máu chảy
qua đây nuôi dưỡng cả hai. Thế nên, đứa phát triển
mạnh hơn sẽ lấy của đứa kia chất dinh dưỡng. Thai
nhi yếu hơn sẽ tụt hậu về mức độ phát triển, thậm
chí nếu bị tranh cướp hết chất dinh dưỡng, nó sẽ
chết và bị đào thải. Trong trường hợp của ông
Wanter, vì các bào thai nằm rất sát với nhau nên bào thai
yếu và nhỏ hơn có thể bị bọc trong khoang bụng của
bào thai khác. Nghĩa là bào thai mạnh thực sự đã “nuốt”
bào thai sinh đôi với mình. Y văn thế giới đã ghi nhận
khoảng 90 trường hợp bào thai nuốt bào thai như thế và
thường thì bào thai bên trong không thể sống sót cho đến
khi được sinh ra.
Theo
TS. Ann Johnson thuộc Trung tâm Điều trị các bệnh cận
sinh sản, Đại học Liverpool, cuộc tranh giành sự sống
trong bụng mẹ nhiều khi diễn ra rất khốc liệt, mà
chiến thắng phải trả bằng cái giá đắt. Đó chính là
những khuyết tật phát triển của đứa trẻ sống sót.
Phát hiện này được rút ra khi các nhà khoa học nghiên
cứu các trường hợp trẻ sơ sinh bị chứng nhũn não làm
bại liệt. Thoạt đầu người ta tin rằng đó là hậu
quả của hiện tượng não thiếu ôxy, thế nhưng kết quả
nghiên cứu lâm sàng lại chứng tỏ: thủ phạm này chỉ
giải thích được đối với 10% nạn nhân. Với 90% còn
lại, thủ phạm chính là những người anh em đã biến
mất kia. Các chuyên gia khẳng định được như vậy là
bởi vì khi theo dõi số phận của những cặp sinh đôi,
họ tính được rằng, nếu như một trong hai sinh linh “ra
đi” ngay từ thời gian còn nằm trong bụng mẹ thì nguy
cơ nhũn não của đứa may mắn sống sót lên tới 25 lần.
Điều này liên quan đến tỷ lệ phân bố hai loại gen
điều chỉnh nồng độ cholesterol PPRAG giữa hai bào thai.
Thông
thường, nếu hai loại gen PPRAG được phân bố với tỷ
lệ bằng nhau ở các thai nhi, thì chúng có cơ hội phát
triển và ra đời ngang nhau. Nhưng kết quả nghiên cứu
của TS. Andreas Busjahn và Max Delbruck thuộc Trung tâm y học
phân tử ở Berlin lại cho thấy: 65/100 các cặp sinh đôi
chỉ có một trong hai loại gen. Theo TS. Busjahn: Trong trường
hợp này, loại gen có ưu thế sẽ cho thân chủ điều
kiện thuận lợi hơn trong cuộc tranh giành hợp chất dinh
dưỡng. Thai nhi rủi ro hơn, trái lại sẽ bị cơ thể mẹ
“đồng hoá” gần hết hoặc toàn phần. Điều này giải
thích tại sao không phải tất cả các cặp anh chị em
sinh đôi đều có ngày cùng chào đời.
Nhấn
mạnh ý nghĩa khám phá về sự biến mất của bào thai
trong bụng mẹ, giới khoa học cho rằng, vì tương lai đứa
trẻ, người mẹ cần phải thực hiện xét nghiệm chụp
siêu âm sớm hơn. “Đa số các bà mẹ thực hiện xét
nghiệm đó quá muộn, thường trong tháng thứ 4, 5 của
thai kỳ, khi sự ra đi của đứa trẻ yếu hơn đã không
để lại bất cứ dấu vết gì. Điều đặc biệt nguy
hiểm vì đối tượng lúc biến mất thường gây những
chấn thương trầm trọng cho kẻ thắng trận. Việc khẳng
định sớm và ngăn ngừa hậu họa sẽ tạo cơ may bảo
vệ đứa trẻ còn lại trước nguy cơ tàn phế” - TS.
Andreas Busjahn khuyến cáo.
Thục
Yên(Theo Nauka)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét